Từ Bình Tân, anh T đến với Công ty chúng tôi xin được tư vấn việc chia tài sản chung của gia đình anh. Qua trao đổi và xuất trình tài liệu chứng cứ, nội dung sự việc tóm tắt như sau:
Nhà anh T có một thửa đất ruộng 700m2 được chính quyền xã cấp sổ đỏ mang tên bố anh T. Gia đình anh T, gồm 6 người: bố mẹ anh T, một chị gái và 3 anh em trai. Đến năm 2004 bố anh T làm thủ tục sang tên cho cho anh trai thứ 2, là anh B. 200m2 đất và làm thủ tục tách sổ hộ khẩu cho anh B từ thời điểm đó. Một thời gian sau, gia đình anh T đã xin đổi lại sổ đỏ với 500m2 đất còn lại trong bìa sổ đỏ. Sổ đỏ có ghi: cấp cho hộ ông A (ông A là bố anh T), lúc này trong sổ hộ khẩu chỉ còn 4 thành viên: bố mẹ anh T, anh T và một anh trai khác; chị gái anh T đã lấy chồng năm 1993 và đã tách sổ hộ khẩu. Đến năm 2008 ông A. mất và không để lại di chúc. Anh T muốn được tư vấn, liệu anh B và chị gái có còn được chia lại trong phần đất 500m2 đó nữa hay không?
Luật sư tư vấn:
Luật đất đai 2013 quy định:
“Điều 3. Giải thích từ ngữ
Trong luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
…29. Hộ gia đình sử dụng đất là những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật và gia đình, đang sống chung có quyền sử dụng đất chung tại thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất, nhận chuyển quyền sử dụng đất.”
Theo quy định của pháp luật, quyền sử dụng đất được Nhà nước giao, cho thuê, công nhận hoặc nhận chuyển quyền sử dụng cho những người cùng chung sống trong một hộ gia đình phải được xác định là tài sản chung của hộ. Do vậy, theo như thông tin anh T. cung cấp, thì mảnh đất 500m2 là thuộc sở hữu chung của 4 thành viên gia đình được ghi nhận trong sổ hộ khẩu. Bố anh T mất, phần đất này sẽ được chia 4 phần cho hộ tức là bố anh T, mẹ anh T, anh T và một anh trai còn lại. Chị gái anh T và anh B không được ghi tên trong sổ hộ khẩu, không còn là thành viên trong hộ gia đình ông A nên không có quyền yêu cầu chia tài sản chung theo qu định tại Điều 21 Bộ luật dân sự 2015 đối với 500m2 đất nêu trên. Chị gái của anh T và anh B chỉ có quyền chia phần di sản thừa kế mà bố anh T. để lại, tức ¼ của 500m2 đất.
Bộ luật dân sự 215 quy định về người thừa kế theo pháp luật:
“Điều 651. Người thừa kế theo pháp luật
- Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
- Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
…”
Theo quy định trên, mẹ anh T, và tất cả anh chị em của anh T đều thuộc hàng thừa kế thứ nhất và được hưởng phần bằng nhau phần di sản bố anh T để lại.
Sau khi được Công ty tư vấn, gia đình anh T đã thực hiện chia di sản thừa kế thuận lợi, anh T rất hài lòng và cảm ơn sự tư vấn tận tình của công ty.