Tranh chấp thừa kế ở nước ta được xem là loại án dân sự phổ biến, phức tạp, có những vụ án tranh chấp thừa kế kéo dài hàng chục năm. Một nguyên nhân quan trọng làm cho tranh chấp thừa kế phức tạp vì đây là tranh chấp giữa những người thân thích có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng. Quyền thừa kế là một trong những quyền cơ bản của công dân, pháp luật của các quốc gia đều ghi nhận điều này. Bản chất sâu xa của thừa kế là bảo vệ quyền tài sản của công dân. Tuy nhiên, quyền thừa kế không phải là vô thời hạn mà phải có thời hạn nhất định do pháp luật quy định, đó là thời hiệu, “Thời hiệu là thời hạn do pháp luật quy định mà khi kết thúc thời hạn đó thì phát sịnh hậu quả pháp lý đối với chủ thể theo điều kiện do Luật quy định”.
Trước hết để xác định được thời hiệu giải quyết tranh chấp thừa kế cần phải xác về thời điểm mở thừa kế:
Cái chết của một con người làm chấm dứt sự tồn tại con người sinh học đồng thời làm chấm dứt năng lực chủ thể của con người trong xã hội. Tuy nhiên, cái chết của con người không làm chấm dứt tất cả các quan hệ xã hội mà họ tham gia, đặc biệt là các quan hệ về tài sản bao gồm quyền và nghĩa vụ pháp lý của họ. Khác với các quan hệ dân sự khác, quan hệ thừa kế chỉ phát sinh khi có cá nhân bị chết nên pháp luật quy định rõ theo quy định tại Điều 611 Bộ luật dân sự 2015: Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Trường hợp Tòa án tuyên bố một người là đã chết thì thời điểm mở thừa kế là ngày theo Tòa án xác định ngày chết của người tuyên bố chết, đồng thời kể từ thời điểm mở thừa kế, những người thừa kế có các quyền và nghĩa vụ tài sản do người chết để lại.
Bộ luật dân sự năm 2015 đã sửa quy định về thời hiệu thừa kế cụ thể Điều 623 Bộ luật dân sự quy định: Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời hiệu mở thừa kế. hết thời hạn này thì di sản thuộc về người đang quản lý di sản đó. Trường hợp không có người thừa kế đang quản lý di sản thì di sản được giải quyết như sau:
+ Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu theo quy định tại Điều 236 của Bộ luật này;
+ Di sản thuộc về Nhà nước, nếu không có người chiếm hữu quy định tại điểm a khoản này.
+ Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế
+ Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 3 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế
Theo quy định của Bộ luật dân sự thời hiệu thừa kế là 10 năm đối với động sản, là 30 năm đối với bất động sản hết thời hiệu này thì người thừa kế không được hưởng di sản thừa kế nữa nhưng trên thực tế thời hiệu này không phải lúc nào cũng được tính liên tục. Theo quy định tại Điều 156 Bộ luật dân sự 2015 quy định vào thời gian không được tính vào thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự xảy ra trong một số trường hợp sau:
+ Sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan làm cho chủ thể có quyền khởi kiện yêu cầu chia thừa kế, quyền yêu cầu không thể khởi kiện, yêu cầu trong phạm vi thời hiệu.
Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép.
Trở ngại khách quan là những trở ngại do hoàn cảnh khách quan tác động làm cho người có quyền, nghĩa vụ dân sự không thể biết về việc quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm hoặc không thể thực hiện được quyền, nghĩa vụ dân sự của mình;
+ Chưa có người đại diện trong trường hợp người có quyền khởi kiện thừa kế, người có quyền yêu cầu là người chưa thành niên, mất năng lực hành vi dân sự, có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự;
+ Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự chưa có người đại diện khác thay thế.
Không phải mọi trường hợp tranh chấp thừa kế cũng tuân theo thời hiệu trên. Theo quy định tại Mục 2 Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/08/2004 về thời hiệu khởi kiện thừa kế của người có quyền thừa kế:
+ Đối với trường hợp thừa kế mở trước ngày 01/7/1996, thì thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế được thực hiện theo quy định tại Điều 36 của Pháp lệnh Thừa kế năm 1990 và hướng dẫn tại Nghị quyết 02/HĐTP ngày 19/10/1990 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao “hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh Thừa kế”:
Trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế, người thừa kế có quyền khởi kiện để yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác.
Trong thời hạn ba năm, kể từ thời điểm mở thừa kế, cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại, thanh toán các khoản chi từ di sản.
Trong trường hợp do trở ngại khách quan mà không thể thực hiện được quyền khởi kiện trong thời hạn thì thời gian bị trở ngại khách quan không tính vào thời hiệu khởi kiện.
Đối với các việc thừa kế đã mở trước ngày ban hành Pháp lệnh này thì thời hạn được tính từ ngày công bố Pháp lệnh này.
Khi xác định thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế mà thời điểm mở thừa kế trước ngày 01/7/1991 và di sản là nhà ở thì thời gian từ ngày 01/7/1996 đến ngày 01/01/1999 không tính vào thời hiệu khởi kiện
+ Đối với trường hợp thừa kế mở từ ngày 01/7/1996 thì thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế được thực hiện theo quy định tại Điều 648 của Bộ luật Dân sự.
Trường hợp không áp dụng thời hiệu thừa kế:
Trường hợp trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế hoặc sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Toà án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết như sau
+ Trường hợp có di chúc mà các đồng thừa kế không có tranh chấp và thoả thuận việc chia tài sản sẽ được thực hiện theo di chúc khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo di chúc.
+ Trường hợp không có di chúc mà các đồng thừa kế thảo thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo thoả thuận của họ.
+ Trường hợp không có di chúc và các đồng thừa kế không có thoả thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo quy định của pháp luật về chia tài sản chung.
+ Trường hợp người chết để lại di sản cho các thừa kế nhưng các thừa kế không trực tiếp quản lý, sử dụng mà di sản đó đang do người khác chiếm hữu bất hợp pháp hoặc thuê, mượn, quản lý theo Ủy quyền… thì các thừa kế có quyền khởi kiện người khác đó để đòi lại di sản.