Thừa kế là việc chuyển giao tài sản các quyền và nghĩa vụ (theo di chúc hoặc theo pháp luật) từ một người đã chết sang một cá nhân khác. Thừa kế về đất đai là việc thừa kế trong đó di sản của người chết để lại là quyền sử dụng đất. Trong quan hệ thừa kế, những người là vợ, chồng, con của người chết hoặc những người được chỉ định trong di chúc là những người được hưởng thừa kế của người chết. Tuy nhiên, trong thực tế có những trường hợp họ đã vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ của mình, có những hành vi trái pháp luật, trái đạo đức xã hội, trái với thuần phong mĩ tục của Việt Nam, xâm phạm đến danh sự, uy tín, tính mạng, sức khỏe của bố, mẹ, anh, em, vợ, chồng,.. Người có những hành vi như vậy không được quyền hưởng di sản của người để lại thừa kế.
1.Trường hợp không có di chúc.
Căn cứ khoản 1 Điều 621 Bộ luật Dân sự năm 2015, những người sau đây không được quyền hưởng di sản:
- Trường hợp 1. Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó.
- Trường hợp 2. Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản.
- Trường hợp 3. Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng.
- Trường hợp 4. Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc, che giấu di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.
Cần lưu ý: Người thuộc những trường hợp trên đây vẫn được hưởng di sản là quyền sử dụng đất, nhà ở hoặc cả nhà và đất, nếu người để lại di sản đã biết hành vi của những người đó, nhưng vẫn cho họ hưởng di sản theo di chúc.
- Trường hợp có di chúc:
Con đã thành niên có khả năng lao động và người để lại di sản thừa kế viết di chúc hợp pháp không cho người con đó hưởng thừa kế.
Căn cứ vào Khoản 1 Điều 644 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định:
“1. Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó:
- a) Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
- b) Con thành niên mà không có khả năng lao động”.
Người là con đẻ, con nuôi của người để lại di sản nhưng không được quyền hưởng di sản khi đủ điều kiện sau:
Điều kiện 1: Con đã thành niên có khả năng lao động.
Theo quy định trên, nếu con đã thành niên (từ đủ 18 tuổi trở lên) có khả năng lao động nhưng người lập di chúc không cho người con đó hưởng thì người con đó không có quyền hưởng di sản thừa kế theo di chúc.
Điều kiện 2: Toàn bộ di sản là quyền sử dụng đất, nhà ở được thừa kế theo di chúc hợp pháp.
Như vậy, nếu con đã thành niên có khả năng lao động thì không được quyền hưởng di sản là nhà, đất của người chết để lại nếu toàn bộ nhà, đất được thừa kế theo di chúc hợp pháp mà người lập di chúc không cho người con đó hưởng.
- Trường hợp vẫn được hưởng di sản thừa kế mặc dù di chúc không được hưởng.
Mặc dù là con đã thành niên có khả năng lao động và toàn bộ di sản thừa kế là quyền sử dụng đất được thừa kế theo di chúc mà người lập di chúc không cho hưởng di sản nhưng trong một số trường hợp sau vẫn có quyền hưởng di sản thừa kế, cụ thể:
- Những người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.
Ví dụ: Ông A có 01 thửa đất mang tên chủ sử dụng đất của ông A , ông A có hai người con là B và C. Khi ông A còn sống có lập di chúc để lại toàn bộ quyền sử dụng đất cho B. Tuy nhiên, khi ông A trở B đi học thì bị tai nạn giao thông và chết cùng thời điểm. Khi đó, quyền sử dụng đất và nhà ở được chia thừa kế theo pháp luật; C thuộc hàng thừa kế thứ nhất nên được hưởng di sản thừa kế theo pháp luật.
- Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản. Khi đó di sản sẽ được thừa kế theo pháp luật (theo diện và hàng thừa kế).
Kết luận:
Trên đây là những trường hợp không được hưởng thừa kế quyền sử dụng đất dù có quan hệ hôn nhân (vợ, chồng), huyết thống (cha, mẹ, con đẻ, anh, chị, em…), nuôi dưỡng (con nuôi) với người để lại di sản.