Hiện nay, nhiều người sử dụng hình thức tặng cho nhà đất để tặng cho vợ hoặc chồng hay con cái, anh, chị, em của mình. Tuy nhiên, vì một nguyên nhân nào đó họ lại muốn lấy lại phần nhà đất đã tặng cho, vậy họ có quyền đòi lại không?
Căn cứ vào Điều 457 Bộ Luật Dân sự 2015 thì khái niệm của hợp đồng tặng cho là:
“Hợp đồng tặng cho tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên tặng cho giao tài sản của mình và chuyển quyền sở hữu cho bên được tặng cho mà không yêu cầu đền bù, bên được tặng cho đồng ý nhận.”
Việc tặng cho quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở cần phải lập thành văn bản và được công chứng, chứng thực, phải đăng ký quyền sở hữu (căn cứ tại Điều 459 Bộ Luật Dân sự 2015). Vậy người tặng cho lấy lại được quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở đã tặng cho trong các trường hợp sau đây:
Trường hợp 1: Được đòi lại trong trường hợp việc hợp đồng tặng cho vô hiệu
Đây là trường hợp hợp đồng tặng cho bị vô hiệu khi vi phạm Điều 117 và Điều 122 Bộ Luật Dân sự 2015 về:
+ Hình thức: Hợp đồng tặng cho bất động sản không được lập thành văn bản và công chứng, chứng thực thì vô hiệu
+ Chủ thể tham gia hợp đồng: không có năng lực hành vi dân sự phù hợp, không tự nguyện, bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép…
Khi đó người tặng cho có quyền khởi kiện lên Tòa án để yêu cầu Tòa tuyên bố hợp đồng tặng cho vô hiệu, lúc đó các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu và trả lại cho nhau những gì đã nhận được theo quy định tại Điều 131 Bộ Luật Dân sự 2015. Trong trường hợp này căn cứ tại điểm c Khoản 1 Điều 39, điểm a Khoản 1 Điều 35 và Điều 26 Bộ Luật Tố tụng Dân sự 2015 thì người tặng cho nộp đơn khởi kiện tại Tòa án nhân dân cấp Huyện nơi có bất động sản.
Trường hợp 2: Được đòi lại trong trường hợp hợp đồng tặng cho có điều kiện
Điều 462 Bộ Luật Dân sự 2015 có quy định:
“1. Bên tặng cho có thể yêu cầu bên được tặng cho thực hiện một hoặc nhiều nghĩa vụ trước hoặc sau khi tặng cho. Điều kiện tặng cho không được vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.
- Trường hợp phải thực hiện nghĩa vụ trước khi tặng cho, nếu bên được tặng cho đã hoàn thành nghĩa vụ mà bên tặng cho không giao tài sản thì bên tặng cho phải thanh toán nghĩa vụ mà bên được tặng cho đã thực hiện.
- Trường hợp phải thực hiện nghĩa vụ sau khi tặng cho mà bên được tặng cho không thực hiện thì bên tặng cho có quyền đòi lại tài sản và yêu cầu bồi thường thiệt hại.”
Theo đó, trong trường hợp bên tặng cho yêu cầu bên được tặng cho thực hiện một hoặc nhiều nghĩa vụ sau khi nhận được tặng cho, mà bên được tặng cho không thực hiện thì bên tặng cho có quyền đòi lại tài sản và kèm theo việc yêu cầu bổi thường. Lưu ý là điều kiện tặng cho phải không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội. Như vậy, chỉ trong trường hợp các bên có thỏa thuận trước về điều kiện tặng cho và được ghi trong hợp đồng thì khi người nhận tặng cho không thực hiện theo thỏa thuận, người tặng cho mới được đòi lại tài sản
Tóm lại, nếu hợp đồng tặng cho không bị vô hiệu, không phải hợp đồng tặng cho có điều kiện và bên nhận tặng cho không thực hiện điều kiện mà hợp đồng tặng cho đã hoàn tất, đã làm thủ tục đăng ký biến động tại cơ quan có thẩm quyền thì nhà, đất đã thuộc về người được tặng cho, người tặng cho không thể đòi lại được.